Tràm và tinh dầu tràm

Hỏi:

Cây tràm ngoài việc dùng để chưng cất tinh dầu còn có tác dụng gì?

(Nguyễn Văn Thật - Đồng Tháp)

Trả lời:

Tràm còn gọi là cây chè đông, chè cay, smach chanlos, smach tachah (Cam puchia), cajeputier (Pháp).
Tên khoa học Melaleuca leucadendron L.
Thuộc họ Sim Myrtaceae.
Cây tràm cho ta những vị thuốc sau đây:
- Cành non mang lá tươi hay phơi khô.
- Tinh dầu tràm thường gọi là tinh dầu khuynh diệp.
- Tinh dầu tràm tinh chế.


Mô tả cây
Tràm là một cây nếu để phát triển tự nhiên có thể cao tới 4 - 5m, nhưng đều bị cắt xén thường chỉ còn là những cây bụi chừng 40 - 50cm. Trên thân cây to lớp vỏ bong ra thành từng mảng to dài. Lá mọc so le, cuống màu xanh vàng nhạt, phiến lá hình mác, trên có những gân chạy dọc theo gân chính, lúc đầu mỏng và mềm, về sau thành dày, cứng và dòn, thường là 4 - 8cm, rộng 10 - 20mm. Vì lá thường được nhân dân một số vùng (Vĩnh Phúc, Phú Thọ) nấu nước uống thay chè lại mọc hoang ngòai đồng cho nên có tên chè đồng, vị nước uống hơi cay cho cên còn có tên chè cay. Hoa nhỏ màu trắng vàng nhạt, không cuống mọc thành bông ở đầu cành, nhưng sau từ đầu bông hoa, cành lại mọc dài thêm và mang lá tthành ra bông hoa nằm giữa cành lá trông rất đặc biệt. Quả nang rất cứng 3 ngăn, hình tròn, đường kính 13mm, cụt ở đỉnh, đài cứng tồn tại ôm sâu vào quả. Hạt hình trứng dài khoảng 1mm.
Tên cajeput do chữ Malaysia của tên cây cajeput hay kaiputi có nghĩa là gỗ trắng vì cây này có màu nhạt trông xa như một rừng màu trắng.
Phân bố thu hái và chế biến
Cây tràm mọc hoang tại khắp nơi trong nước ta từ Nam đến Bắc, nhiều nhất tại miền Nam mọc thành từng rừng bạt ngàn sau những rừng sú.
Tại miền Bắc, tràm nhiều nhất tại tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Tại Nghệ An, Hà Tĩnh và vùng đồi núi huyện Kim Anh và Đa Phúc (Vĩnh Phúc), huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) cũng có một số ít tràm mọc hoang.


Trước đây tràm hầu như không được khai thác. Thường nhân dân chỉ hái lá và cành non về phơi khô nấu nước uống thay chè hay uống để giúp sự tiêu hóa. Mãi tới vào khoảng năm 1990 cây tràm vùng Quảng Bình, Quảng Trị mới đựơc khai thác để cất tinh dầu bán rộng rãi trên thị trường với tên “dầu khuynh diệp" (đúng ra là tinh dầu) vì khuynh là nghiêng, diệp lá lá, cây tràm có lá mọc nghiêng không giống những cây lá khác, từ đó cây này có tên là khuynh diệp.
Ngoài nước ta ra, tràm còn thấy mọc hoang ở Campuchia, Indonesia, Philippin, Malaysia.
Công dụng và liều dùng
Trong nhân dân thường dùng lá và cành non mang lá để pha hay hãm hoặc sắc với nồng độ 20g lá để trong 1 lít nước để uống thay nước giúp sự tiêu hóa, chữa ho hoặc để xông. Có thể dùng dưới dạng ngâm rượu với tỉ lệ 1/5 với tên cồn khuynh diệp cùng một công dụng như trên với liều 2 - 5g cồn một ngày.
Phổ biến nhất là tinh dầu. Thường dùng nguyên chất để xoa bóp chữa đau nhức, tê thấp, ho, cảm. Mặc dù tỉ lệ xineol trong tinh dầu tràm thấp hơn trong tinh dầu bạch đàn giới thiệu sau đây nhưng người ta cho rằng tinh dầu sát trùng của tinh dầu tràm lại mạnh hơn tinh dầu bạch đàn, người lớn và trẻ con đều có thể dùng tinh dầu nguyên chất để xoa bóp, người ta có thể uống tinh dầu với liều X (10) đến L (50) giọt nhỏ vào nước thêm đường mà uống. Với tinh dầu tinh chế có thể chế thành thuốc tiêm với nồng độ 5 - 10 hoặc 20%. Ngày tiêm dưới da 1 - 2 ống chứa 0,10 - 0,20g tinh dầu.
Dung dịch tinh dầu tràm 5 - 10 hay 20% trong dầu còn được dùng với tên gometol để nhỏ mũi chống ngạt mũi.


Bình luận